Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Ba Tôi Và Chiếc Xe Ngựa

Ba tôi năm nay đã vào tuổi tám mươi sáu. Ông là người đàn ông mà tôi yêu thương và kính trọng nhất của cuộc đời mình. Tôi có nhận thức ấy không chỉ vì ông là đấng sinh thành của tôi, nuôi nấng và cho tôi ăn học, mà ông còn là dấu ấn đọng mãi trong tôi về một con người lao động miệt mài ròng rã suốt bảy mươi ba năm qua.



Ba tôi đã vào cuộc mưu sinh khi mới ở tuổi mười hai bằng cái nghề chạy xe ngựa. Cái xe dềnh dàng, con ngựa cao to, dù đứng chẳng tới đâu, thế nhưng ông vẫn phải điều khiển, không thể khác được. Thật nguy hiểm, bởi tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào từ khi mắc con ngựa vào xe cho đến khi vận chuyển trên đường, mà cầu đường ngày ấy đâu được như bây giờ. Hai, ba giờ sáng, dù cho mưa gió bão bùng, lạnh lẽo đến thấu xương, với chiếc đèn bão treo trên gọng xe, ông cầm cương lầm lũi với tiếng vó ngựa gõ đều trong đêm trên con đường quen thuộc để kiếm từng người khách. Một số người trong làng xe ngựa gọi ông là kẻ giựt khách, hay nói một cách khác là phổng tay trên miếng ăn của họ. Và cái gì cũng có giá của nó. Họ đánh ông không thương tiếc.

Ông kể với tôi, gần như ngày nào ông cũng bị đánh, đó là những ngày tháng buồn tủi nhất, tối tăm nhất của cuộc đời ông. Đồng tiền ông đem về đôi khi pha lẫn vết máu của chính mình. Nhưng đó cũng là những tháng ngày ông đón nhận cái tình người sâu sắc của một số người khách bán than, bán cá, bán nước mắm, bán rau… Họ chờ đi xe của ông, trả tiền và cho thêm, chứ không đi xe người khác vì họ hiểu được hoàn cảnh của ông. Thấm thoát với thời gian, ba tôi lớn lên cùng những dấu thâm tím, vết sẹo ngày càng nhiều từ các trận đòn của một số người trong làng xe ngựa Cây Bông quê tôi.

Và nỗi bất hạnh lớn nhất lại ập đến đời ông khi ông nội, bà nội qua đời, lúc đó ông chỉ 16 tuổi. Không còn cha mẹ, ông phải nuôi nấng, chăm sóc, bảo bọc hai đứa em, một trai mười tuổi, một gái năm tuổi - rồi đứng ra dựng vợ gả chồng. Ba anh em ở cảnh mồ côi, có gì ngon, tốt đẹp ông đều dành cho hai em. Ngày đi cưới má, ông phải mượn áo sơmi và quần tây mới của hai đồng nghiệp trong làng xe ngựa Cây Bông để đến nhà ngoại rước dâu cho tươm tất một chút. Rồi ông lại chuyển chiếc xe ngựa đang chạy cho em trai vừa cưới vợ để ổn định cuộc sống. Ông xuống chạy mướn cho một chủ xe ngựa ở thị trấn Bình Định. Thế nhưng với bản chất cần cù chịu khó, ba tôi đã vượt qua tất cả - từ chiếc xe ngựa. Và, anh em tôi lớn lên cũng từ hạt gạo xe ngựa, chữ nghĩa có được dù ít dù nhiều cũng từ xe ngựa mà ra.

Vẫn biết ai cũng phải làm để sống, để tồn tại, nhưng ít nhất là trong làng xe ngựa Cây Bông này, trước đó và về sau, cho đến tận mãi hôm nay cũng không có trường hợp thứ hai như ông. Và trong hoàn cảnh như vậy, ông cố gắng qua được Sơ học yếu lược, tức lớp 3 bây giờ. Tôi là con trai lớn nên ông thường hay nói chuyện với tôi, và qua đó tôi hiểu được ước mơ của ông về những đứa con của mình. Tất cả đều phải đi học đến nơi đến chốn – đó là quan điểm nhất quán, trước sau như một của ông.

Sau ngày giải phóng, trong điều kiện hết sức khó khăn ở nông thôn miền Trung, nồi cơm của mười nhân khẩu nhà tôi, bảy phần là mì lát, ba phần là gạo, nhưng ông đã thuyết phục má tôi, ưu tiên cho việc học. Những ngày tháng ấy, ông tham gia công tác địa phương và làm ruộng. Ngày nào cũng như ngày nào, cứ đến 4 giờ sáng là ông kêu những đứa con đang học lớp 9 và lớp 12 thức dậy để học. (Đây là hai lớp được ông quy định ưu tiên cho việc học để thi tốt nghiệp, thi chuyển cấp, không phải làm ruộng hay nấu cơm gì cả). Và thế là ông rót dầu, thắp đèn, rồi ngồi đó với bình trà để nhắc khi đứa nào đang học mà ngủ gục. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, đứa nào cũng phải học thêm về ngành nghề chuyên môn ở bậc trung học chuyên nghiệp hoặc đại học, cao đẳng. Anh em tôi có được như vậy, trước hết phải nói đến là nhờ sự nhận thức và cách nhìn của ba tôi về chuyện học hành. Ông luôn căn dặn, nghèo thì nghèo, khó khổ thì khó khổ nhưng phải học.

Và phải nói rằng, trong các nghề đã đi qua, nghề chạy xe ngựa là nghề gắn bó và có nhiều duyên nợ với ba tôi nhất. Chính vì thế nên ông có kinh nghiệm và rất giỏi trong việc tập ngựa mới và thuần phục ngựa chứng. Phải nói là con ngựa có chứng đến cỡ nào ông cũng trị được. Trong một cuộc thi đua ngựa toàn tỉnh Bình Định vào những năm 50 của thế kỷ trước, ông - Ba Cảnh xe ngựa - đoạt vị trí quán quân, và được người trong nghề gọi ông là “Tráng sĩ Ba Cảnh”. Ông vốn nhỏ con nên khi ngựa tung vó phi nhanh, ông ghì sát mình ngựa với đôi tay thuần thục cùng cách điều khiển cặp dây cương quen thuộc từ hồi 12 tuổi, người hâm mộ gần như không còn thấy ông mà chỉ thấy con ngựa bay qua trước mắt mình. Những người cùng thế hệ với ông kể cho tôi nghe về ông lúc lên lưng ngựa, với một thái độ khâm phục, trân trọng và quý mến. Cho đến giờ này, ở tuổi 86, ông vẫn minh mẫn, vẫn khỏe, có đi đâu khoảng bốn, năm cây số, ông thường sử dụng xe đạp.

Tôi tự hào về ba tôi, trước hết là tình thương yêu, là tấm lòng luôn quan tâm chăm sóc của ông đối với những người thân của mình. Thứ hai, là bản lĩnh đàn ông trong con người ông trước những biến cố của cuộc sống, vẫn chịu đựng, vững vàng vượt qua. Và, điều quan trọng nhất, là ông luôn vươn tới sự hiểu biết dù hoàn cảnh cuộc sống có khắc nghiệt như thế nào đi chăng nữa.

NGUYỄN HỮU DUYÊN
(Bình Dương)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét